CHÚNG TA LÀ ANH EM TỐT

Thứ Bảy, 3 tháng 4, 2021

Đại Cathay Sinh Ra Để Làm Trùm Của Những Thằng Trùm

 Nếu ai có theo dõi vụ án của Năm Cam thì chắc không ngạc nhiên khi nghe đến tên Đại Cathay, đại ca của Lâm 9 Ngón, kẻ đã bị nữ quái Dung Hà tạt axít.  Đại Cathay trên báo thực sự gây ấn tượng bởi vẻ điển trai cũng như nụ cười nhếch khóe môi của kẻ sinh ra để làm Trùm của những ông trùm này.




Ngày ấy ở Sài Gòn, danh tiếng của người đứng đầu Tứ Đại Thiên Vương là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh, Điệu Ru Nước Mắt. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Tàu của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu.

Ngay cả đám du đãng cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự, Mẹ của Đại Cathay cũng khá nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì có trời mà biết. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng con trời có lẽ xuôi tai hơn cả.

Kỳ thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay du đãng hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của Mười ban tự vệ công tác thành, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương tức Dương Văn Dương. Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội, Quận 4. Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất lì đòn, những đức tính được thừa kế đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn.

Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại ghiền thuốc phiện nặng nên gia sản dần dần biến hết. Giận dỗi vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn bông Cầu Mống đánh giầy, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Nguyễn Công Trứ tại đó có 1 rạp chiếu phim tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lãnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm tên đất vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, đại ca đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc Đại mới 14 tuồi.

Trở thành du đãng, Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em đi làm mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là những tên thuyết khách cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may bị ế, báo bị mưa ướt, thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên chăn chíp tham lam khác mà còn lấy của đứa trúng mánh cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời anh Đại. Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên.

Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các ông cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẫn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, cảnh sát lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng coi. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi ói mửa, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức.

Ở miền Nam trước năm 1975, có bốn nơi được coi là lò đào tạo du đãng. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ sở nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên kia cầu Trình Minh Thế nay là cầu Tân Thuận là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân cưỡng bức phục vụ tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, mặc kệ mưa đạn trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận bia thịt của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời.

Đại Cathay và vợ

Hầu hết đám du đãng Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hạng vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại tù con rạ, để phân biệt với đám tù con so mới nhập trại lần đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với Của Gia Định, Lâm 9 Ngón, Hắc Quảy Quảy, Hòa Áo Thung những đàn em đắc lực sau này trên chốn giang hồ.  Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng lao đầu vào những trận thư hùng vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn.  Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này đón tiếp Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội quanh cầu Ông Lãnh gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải vốn có hạng trong nghề dao búa đều bị Đại Cathay quy phục về dưới trướng.

Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giầy thì toàn bộ khu vực Cầu Mống, Dân Sinh, Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo đều do một tay du đãng nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn mã tấu, sẵn sàng rút ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai.

Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giầy dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm kết Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh, Ba Hội, Cảnh Tượng. Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo cũ, Chánh Hưng, hẻm 20 để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu.

Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào thu thuế tranh giành bà con tiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi.

Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề nghị:

- Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán!

Tám Lâu gạt phắt:

- Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái đinh gì!

Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn chém bậy vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình trải đệm, bất ngờ luộc băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xốc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉa cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải vô nhà thương, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa.

Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn tài ba của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà bông, lò mổ heo, lò rượu trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió.

Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippy bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí giả trong khoản ăn chơi. Luôn có mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu Bò, Hoàng Sayonara tay này móc classic bản Sayonara rất não nùng và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã trông bụi đời, hippy hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Xi, bà Bảy Trà Đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối.

Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung. Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara bàn:

- Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quý tộc, chức sắc, dân du đãng, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này.

Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Xi anh vợ Năm Cam, ông trùm sòng bạc sau này đã có sòng bài sẵn nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Xi cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi trùm khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng Đầu Bò một chiếc Traction 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp phơi đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcarat, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám kê biên lai, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố.

2.  Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỷ phú Hoàng Kim Quy vua kẽm gai, Xí Ngàn Mặt Rỗ vua thuốc Bắc, La Thành Nghệ vua thuốc đỏ và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Tàu là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các vụ này, Đại Cathay cũng làm quen, chơi chịu được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác.

Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm lừng lẫy khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm Lê Lai, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại chơi kèo trên, giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định hội đồng diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo, chủ vũ trường có thêm Hùng Phốc và Luân 2 du đãng cộm cán khác cùng giúp đỡ, mời Đại đến bàn công việc. Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã dắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý hòa giải. Danh xưng Tứ Đại Thiên Vương, ĐẠI, TỲ, CÁI, THẾ bắt nguồn từ đó.

So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời ông Diệm, Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Ba Tàu Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút đều do giới này kinh doanh hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, Con Ngựa Điên đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là cơ sở kinh tài của ông Diệm, Nhu. Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay du đãng Tàu không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy nhằm cũng cố địa vị Vua Hắc Đạo của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ, Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa.

Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm coi chừng ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Xi thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bài ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo:

- Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn.

Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em chiến đấu nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm Chín Ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều.

Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng là nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. Con Ngựa Điên phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị đánh lén nhưng Đại Cathay nổi máu anh hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền. Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm dzách bạc hồ hãn tức hẻm 100, Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm nơi vợ bé của y sinh sống.

Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ.  Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cơ quan cảnh sát hết sức ưu phiền, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức tìm cách mua chuộc hắn.

Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ có lẽ do muốn chơi trội bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ:

- Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được.

Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn:

- Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp?

Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt ngào:

- Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quý anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi.

Đại Cathay vẫn ngỗ ngáo:

- Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được...

Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Nguyễn Ngọc Loan, Trưởng Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật, tướng Sáu Lèo biệt danh của Tướng NNL cho mở trung tâm bài trừ du đãng đặt ở bên kia cầu Bình Triệu và lập biệt đội hình cảnh nhằm tiêu diệt du đãng do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, biệt đội hình cảnh được bắn bỏ bất cứ tên du đãng nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, biệt đội hình cảnh vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng tép riu, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng dĩ độc trị độc. Đích thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá:

- Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng.

Đại Cathay từ chối:

- Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt.

Nguyễn Ngọc Loan hạ giá:

- Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành.

Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Tướng Nguyễn Ngọc Loan nổi giận:

- Tôi ra lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống!

Đại Cathay trả lời:

- Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được.

Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì dám vuốt râu kẽm tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của tướng Tư Lệnh CSQG Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình.

3.  Quá ngạo mạn, đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách Chief ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ.

Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống động và hưởng thụ. Một trong những mốt của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan quân đội hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy ông tướng độc nhỡn thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật, ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là con nhạn trắng Gò Công, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp thắng cháy cả mặt đường.

Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu, tài pán vũ trường Olympic còn là một mối rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc.

So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng xài lớn, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm cũng kẻn hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị gác kèo, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẵn phớt tỉnh ăng lê, coi như chuyện tép riu.

Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín Ngón và Lành Cầu Muối một tay cảnh sát ăn r" với du đãng kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám vui vẻ mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo không có chủ tướng đi cùng xộc vô, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẫn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rích của băng Cathay với đám cave như thể giỡn người. Nỗi giận, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm:

- Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?

Vẫn không buông vai cô đào nhí, Hải Súng hất mặt:

- Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì?

Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng:

- Đừng chơi quê tụi này chớ!

- Thì đã sao? Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ!

Hải Súng tiếp: Thịt người tanh không ăn được, đừng dọa nhau, tụi này không thích!

Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải đỏ lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố:

- Không thích cũng bắt!

Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên:

- Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây.

Pằng! Pằng! Pằng! Ầm

Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín Ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín Ngón gào lên:

- Anh em rút đi, để tôi lo!

Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong đóng cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã giúp cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pô Con dìu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa lái chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín Ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu.

Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho biệt đội hình cảnh bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Không xong, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn bao nguyên nhà hàng Paramouth và mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý:

- Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh.

Viên đội trưởng biệt đội hình cảnh cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng:

- Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu.

Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn:

- Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì.

Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe be chở gỗ không rõ xuất xứ đã bò ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tiêu, không nhận dạng được bảng số. Giới du đãng đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi.

Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, với tội danh du đãng đặc biệt, Đại Cathay lại bị tóm cổ cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc.

Phần kết 

Gọi là trung tâm hướng nghiệp nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp.

Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là hướng nghiệp cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo:

- Gọi hướng nghiệp nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi.

Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất:

- Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó.

Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc"nghiễm nhiên trở thành Trại Cửu Sừng.

Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan và sảnh sát, Trại Cửu Sừng chẳng những không hướng được chút nghiệp nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hoà Áo Thun, Lâm Chín Ngón, Bảy Xi, Hỏi Phoòng Kin, Thanh Tưa, Quẩy Thầu Hao... Sau này đều là những tên du đãng cộm cán nhất của Sài Gòn, Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn.  Trại Cửu Sừn" như một con dấu phẩm chất để đánh giá du đãng. Tên nào từng ngồi ở Trại Cửu Sừng sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ.

Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự nay là Nguyễn Thị Minh Khai đối diện với vũ trường Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.

Đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tông, trong chợ Dân Sinh... chủ yếu để lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỹ niệm.

Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng.

Theo lời đồn đại của giới du đãng thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn.

Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì Kíp, Lắm Mổ Bụng, Hùng Mỏ Chuột, Hải Súng và Lâm Chín Ngón. Đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín Ngón gã đệ tử thân nhất ở lại. Đại nói với cả đám:

- Thằng Lâm lóc chóc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn.

Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín Ngón đến và bảo:

- Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách.

Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín Ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài.

Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì Kíp, Hùng Mỏ Chuột, bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có nằm vùng Việt Cộng ẩn trốn. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện.

Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được, biết không trị nổi Đại Cathay lại nhiều lần bị tên du đãng làm bẽ mặt, Chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân, vợ Đại đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Nguyễn Ngọc Loan đã lên chương trình cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh tướng Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị thay đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, toán lính cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, chúng chạy vô khu nằm vùng của Việt Cộng và VC bắn hạ chúng. Đại Cathay và Hải Súng do phía nằm vùng Việt Cộng tiêu diệt. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng tiết lộ với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay tụi nằm vùng việt cộng đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song không một tờ báo nào nắm được chứng cớ sát hại trùm du đãng Trần Đại. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay tên du đãng ngoại hạng.

Để Tui Phịa Thêm Tí Xíu Nghe Cho Vui Nha!

Câu chuyện huyền thoại trên nghe cũng hay, có thế làm phim như Loan Mắt Nhung được.  Đại Cathay là cái tên gọi của giới làm ăn tàu chợ lớn, nhưng tên chính của nhân vật này là Sơn Đảo, tay anh chị sống vào những nghề buôn bán ma túy, động điếm, bảo kê mấy thương gia Chợ Lớn bị tó vào Chí Hòa với án giết người, là đàn anh nên Sơn Đảo ở Chí Hòa tối ngày ăn xong tập tạ nên có thân hình rất đẹp.

Lâm Chín Ngón không phải là đàn em của Sơn Đảo, chắc chắn là vậy vì hai bên đã có mối hiềm khích từ trước. Lâm Chín Ngón là tay du đãng đáng nể sợ nhất trong Chí Hòa sau khi Sơn bị đi đảo, đám đàn em của Sơn Đảo mấy lần muốn thịt Lâm Chín Ngón nhưng thất bại, tay đàn em sắt máu của Sơn Đảo là Hoàng Đầu Lâu hắn có xăm cái hình đầu lâu to tổ chảng trước ngực là tay anh chị khét tiếng ở khu Ông Tạ được nhiệm vụ phải xử Lâm ở trong Chí Hòa, Lâm Chín Ngón trước mặt các giang hồ cai ngục giết Hoàng Đầu Lâu đâm ngay tim để được cái án đi đảo thanh toán ân oán với Sơn Đảo. Người đi kẻ ở lại đả kết thúc, Sơn Đảo trở thành huyền thoại, Lâm Chín Ngón trở về Sài Gòn sau 75, các bạn có thể kết luận được rồi. 

Chuyện có tướng Loan trong này là hoàn toàn bịa đặt cho thêm phần huyền thoại, trước 75 giết một tên du đảng trong Chí Hòa dễ như chuyện ... ăn cơm nhất là tên có nhiều tiền án như Sơn Đảo.

Thêm chút chi tiết, sau khi về Sài Gòn Lâm có đến gặp Năm Cam nhưng Năm Cam rất ngán sợ nên dùng công an tìm cách làm khó dể Lâm để đấy Lâm đi vùng khác làm ăn, Năm Cam là thứ du đãng tép dựa hơi thế lực công an cán bộ để đi lên nên gặp Lâm Chín Ngón là ỉa, lúc này Lâm đã già nhưng là dân chơi sống để miếng chết để tiếng, tướng tá Lâm hiền lành, không dùng đàn em nhiều, không bắt nạt người khác nhưng chơi rất là đẹp nên giới giang hồ rất nể phục.

Tui phịa tới đây thôi, nếu hổng nghe được thì cứ cho như là chuyện bà 8 đi hén.

Có một chút sai lầm ở trên đây. Nhân vật Đại Cathay là một người, còn Sơn Đảo lại là một người khác, Sơn Đảo đã bị một tên du đãng bắn hạ tại một ngã tư trung tâm Saigon lúc đang dắt một chiếc xe gắn máy động cơ lớn. Sau này có kẻ nhận là thủ phạm.  Người này có tên giang hồ gọi là Y.  Cũng chính vì cái uy tín này mà Y cũng đã bị xử bắn sau năm 75. 

OK, nói thêm Loan Mắt Nhung, một tác phẩm của một tác giả khác, nhà văn Nguyễn Thụy Long, Nguyễn Thụy Long đã sống một thời gian dài cùng giới du đãng và vũ nữ để viết được truyện này, và đã được đạo diễn Lê Dân quay thành phim với các diễn viên Huỳnh Thanh Trà, Ngọc Phu và Thanh Nga. Còn câu chuyện của Đại Cathay nhiều người nhầm chữ đại và ca trong nhóm chữ trên là một đại ca big boss tên Thay nhưng thực ra là trùm du đãng tên Đại hoạt động tại khu vực rạp Cathay, Sài Gòn, có nói rõ trong bài đã được Duyên Anh, Vũ Mộng Long tiểu thuyết hóa qua tác phẩm Điệu Ru Nước Mắt và cũng đã được phổ nhạc, bản Điệu Ru Nước Mắt của nhạc sĩ Huỳnh Anh và Nhớ Người Yêu của Vũ Lai Anh Sơn và quay thành phim năm 1971 cùng tên với đạo diễn Lê Hoàng Hoa cùng nhiều diễn viên tên tuổi của sân khấu Sài Gòn thời đó, Trần Quang, Tâm Phan, Bảo Ân, Huỳnh Thanh Trà, Huyền Anh, Ngọc Đức, Thiên Trang, Mai Lệ Huyền, Xuân Dung, Bích Thủy, Cẩm Hồng…

Tôi thì nghĩ khác, sẽ logic khi nghĩ có sự liên hệ, một người là Tổng Giám Đốc CSQG Đô Thành/VNCH và một là tay trùm chi phối toàn bộ thế giới du đãng khét tiếng Sài Gòn và khôn khéo nhất vẫn là lợi dụng Đại Cathay để qua đó chế ngự và kiểm soát những băng đảng khác và khi không còn cần thì thanh toán nhưng một vị Tướng điên sao làm chuyện đó và nhất là khi loại trừ đôi khi còn cần phải khôn khéo hơn cả khi lợi dụng... từng chi tiết trong bài tôi nghĩ hợp lý và có thể tin được. Tuy nhiên đó chỉ là cách suy đoán của cá nhân tôi. Vào lúc đó với lứa tuổi tui chỉ đọc đề tài này qua những bài phóng sự đăng trên các nhật báo và những tiểu thuyết (đặc biệt của D.A.) và như bạn biết những nguồn này không thể không có thêu dệt, huyền thoại hóa.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét